Website chuyên đề Thiết kế và thi công quán Cafe

Mộc decor:Đơn vị tư vấn thiết kế và thi công quán Cafe chuyên nghiệp. Cung cấp dịch vụ tư vấn thiết kế thi công quán Cafe trọn gói, Chìa khóa trao tay. Chất lượng-đẳng cấp vượt trội. ĐT : 0909555908

www.moc.com.vn Website chính thức của Công ty Mộc Decor

Mộc Decor: Công ty Tư vấn Thiết kế Kiến Trúc- Thi công Xây dựng và Trang trí Nội thất chuyên nghiệp. ĐT : 0909555908.

Website chuyên đề thiết kế Văn Phòng

Mộc decor: Chuyên thiết kế nội thất văn phòng, Cung cấp sản phẩm nội thất văn phòng với mẫu mã độc đáo, Nhận diện thương hiệu. ĐT : 0909555908.

Website chuyên đề Thiết kế và thi công Showroom

Mộc decor:Chuyên thiết kế và thi công Showroom, Cửa hàng trưng bày sản phẩm, Với sự sáng tạo độc đáo trong thiết kế.Chúng tôi giúp bạn khẳng định thương hiệu và tăng doanh số cho bạn

Website Chuyên đề thiết kế thi công cải tạo sửa chữa nhà

Kiến Trúc Sư, Kỹ Sư giàu kinh nghiệm sẽ thẩm định đưa ra phương án tối ưu, Nhằm đảm bảo sự bền vững, Công năng sử dụng cũng như tính thẩm mỹ với sự đầu tư thấp nhất.

Thứ Tư, 23 tháng 12, 2009

Chọn ống kính chụp phong cảnh

Khi mua ống kính chọn phong cảnh cho máy DSLR, bạn phải xem xét rất nhiều yếu tố.

Sau đây là một số gợi ý nhỏ.

1. Chọn các ống góc rộng.

Ảnh chụp bởi ống kính 17 mm cho trường nhìn rộng hơn so với ống tiêu chuẩn 50 mm (khung màu đỏ). Ảnh: Slrphotography.

Ống góc rộng (wide angle lens) là loại ống kính có tiêu cự khoảng 21 - 35 mm khi quy đổi ra hệ máy phim. Đúng như tên gọi, loại ống kính này có khả năng bao quát được một trường nhìn tương đối rộng, thích hợp khi chụp trong phòng hội nghị và ảnh phong cảnh. Những ống có tiêu cự dưới 20 mm được gọi là ống siêu rộng (ultra wide angle lens). Ống siêu rộng cũng rất thích hợp để chụp phong cảnh hoặc các công trình kiến trúc lớn, tuy nhiên, thường gây ra những hiệu ứng đặc biệt như bẻ các đường thẳng thành đường cong (và ngược lại) hay cho ảnh các vật thể không tuân theo tỷ lệ xa gần như nhìn bằng mắt thường.

Nếu bạn là người hay đi du lịch, một ống zoom với tiêu cự nhỏ nhất chừng 17-24 mm là sự lựa chọn khả dĩ. Đa phần những ống này cho chất lượng ảnh kém ống fix có dải tiêu cự tương đương nhưng lại khá linh hoạt trong việc phối cảnh. Bạn sẽ không mất nhiều thời gian di chuyển để lấy trọn quang cảnh trước mặt vào khung hình và cũng đỡ phải thay ống thường xuyên trong các trường hợp cần kíp.

2. Không nhất thiết phải mua ống kính có độ mở lớn.

Ảnh phong cảnh thường sáng và cần độ sâu lớn nên khẩu độ chỉ nên chọn trong khoảng 3,4 đến 4,5, nếu kinh phí có hạn. Ảnh: Slrphotography.
Ảnh phong cảnh thường sáng và cần độ sâu lớn nên khẩu độ chỉ nên chọn trong khoảng 3,4 đến 4,5, nếu kinh phí có hạn. Ảnh: Slrphotography.

Ống góc rộng có độ mở lớn thường rất đắt và nặng do sử dụng nhiều thành phần thấu kính aspheric phức tạp và quy trình chế tạo cực kỳ nghiêm ngặt. Nếu kinh phí có hạn, bạn nên chọn những ống có độ mở khoảng 3.5 đến 4.5. Ảnh phong cảnh thường khá sáng và cần độ sâu lớn nên khẩu độ chừng ấy là quá đủ cho nhu cầu hằng ngày của bạn.

Chú ý, tránh mua những ống kit rẻ tiền đi kèm máy vì đa phần chúng chỉ cho chất lượng ảnh ở mức trung bình và độ bền cũng không được như mong muốn.

3. Nên mua ống kính có tích hợp chống rung.

Tính năng chống rung rất hữu ích đối với các pha chụp thiếu sáng. Ảnh: Wikimedia.
Tính năng chống rung rất hữu ích đối với các pha chụp thiếu sáng. Ảnh: Wikimedia.

Chống rung quang học trước đây được sử dụng chủ yếu trong các đời ống kính cao cấp dành cho máy cơ của các hãng nổi tiếng như Canon, Nikon hay Sigma. Đến nay, công nghệ này đã dần trở nên phổ biến hơn, bạn có thể dễ dàng sở hữu một ống kính chống rung với mức giá không quá cao mà chất lượng quang học vẫn được đảm bảo. Cơ chế này giúp bạn có thể yên tâm tăng thời gian phơi sáng cho ảnh của mình từ 2.5 tới 4 stop so với bình thường, rất hữu dụng trong các pha chụp thiếu sáng hay chụp nhanh. Cần lưu ý rằng một số máy ảnh của Sony, Olympus, Pentax... được tích hợp sẵn công nghệ chống rung cảm biến trong thân máy. Cơ chế này có thể hoạt động với mọi ống kính tương thích của hãng nên bạn không cần phải quan tâm đến tính năng chống rung quang học như trên các sản phẩm của Canon hay Nikon.

3. Nên chọn những ống kính không quá lớn và nặng.

Bạn nên chọn những ống kính không quá lớn và nặng trong những chuyến du lịch. Ảnh: Photocrati.
Bạn nên chọn những ống kính không quá lớn và nặng trong những chuyến du lịch. Ảnh: Photocrati.


Nếu là người ham du lịch, hẳn bạn sẽ biết được cảm giác khi phải vác theo hàng tá đồ lỉnh kỉnh đằng sau lưng. Vì vậy, bạn nên chọn những ống kính nhỏ nhẹ và đa năng để mang theo người nếu không quá coi trọng chất lượng hình ảnh như các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp. Các ống với dải zoom vừa phải (dưới 5x) và khẩu độ trung bình (f/3.5 hoặc nhỏ hơn) thường đáp ứng tốt yêu cầu này.

Mộc Blog by source Trần Hạ Sohoa

Sử dụng ống kính tele

Ống kính tele giúp thu hẹp trường nhìn và cho cái nhìn cận cảnh về vật thể nằm xa, như chú chim trên cành hay cầu thủ bóng đá đang chạy giữa sân.

Ống kính tele với dải tiêu cự 70-300 mm là quá đủ cho những nhu cầu chụp ảnh hàng ngày. Ảnh: Digital Picture.
Ống kính tele với dải tiêu cự 70-300 mm là quá đủ cho những nhu cầu chụp ảnh hàng ngày.
Ảnh: Digital Picture.

Bạn muốn nhấn mạnh chủ thể trong bức ảnh của mình? Các chuyên gia thường khuyên nên sử dụng ống kính tele và tiến lại gần đối tượng ở một khoảng cách vừa phải để thực hiện điều này. Ống kính tele giúp thu hẹp trường nhìn và cho cái nhìn cận cảnh về vật thể nằm xa, như chú chim trên cành hay cầu thủ bóng đá đang chạy giữa sân. Loại ống kính này cũng hay được thợ ảnh sử dụng để chụp ảnh chân dung hoặc chụp macro, do ưu điểm độ nét tốt và khả năng xóa phông cực mạnh. Thông thường, tiêu cự trong dải từ 70 đến 300 mm là quá đủ cho những nhu cầu chụp ảnh hàng ngày của bạn.

"Siêu tele" Nikkor 800 mm f/5.6s ED-IF với độ dài 5046 mm, đường kính 163 mm và khối lượng 5,4 kg. Ảnh: Mir.

Khi mua nên chú ý, ống kính tele có hai loại - loại một tiêu cự (fixed lens) và loại đa tiêu cự (zoom lens). Tele một tiêu cự chỉ có tác dụng thu hẹp trường nhìn theo một giá trị cố định, nhưng chất lượng quang học khá cao và cũng nhẹ hơn đa phần ống zoom có dải tiêu cự tương đương. Thông thường, tiêu cự của những ống fix này được các nhà sản xuất chế tạo theo chuẩn 135 mm, 200 mm và 400 mm. Tất nhiên, bạn cũng có thể chọn một tele với tiêu cự lớn hơn, nhưng giá của chúng thường rất đắt và cũng không hề dễ mang vác theo người trong những chuyến du lịch. Ống kính tele huyền thoại Canon EF 600mm f/4L IS USM có giá hơn 8.000 USD và trọng lượng lên tới 5,3 kg, tương đương với một... kính thiên văn loại nhỏ. Nếu đủ điều kiện để sở hữu ''siêu tele" Nikkor 800mm f/5.6s ED-IF, chắc bạn cũng cần vài người khiêng khi muốn xoay ống kính để chụp một chú chim ở khoảng cách... nửa cây số.

Nikon AF-S 70-300 F4.5-5.6 VR là ống tele đa dụng với mức giá vừa phải. Ảnh: Letsgodigital.
Nikon AF-S 70-300 F4.5-5.6 VR là ống tele đa dụng với mức giá vừa phải. Ảnh: Florian.

Thông thường, bạn nên chọn ống tele zoom để dễ bố cục hơn khi chụp từ xa. Do có nhiều thành phần thấu kính và cấu trúc phức tạp nên loại ống này khá nặng và cho chất lượng ảnh kém hơn đa số ống fix cùng giá bán. Dải tiêu cự 70-200 mm (xấp xỉ 3x) thường được nhiều chuyên gia khuyên dùng vì tính cơ động trong bố cục ảnh cũng như không quá cồng kềnh khi mang theo người trong những chuyến offline cùng bạn bè.

Những thước chụp như thế này cần đến ống kính tele. Ảnh: Experience.
Những thước chụp như thế này cần đến ống kính tele. Ảnh: Experience.

Một số tác dụng quan trọng của ống kính tele.

Thu hẹp trường nhìn, đồng nghĩa với việc "kéo" các đối tượng ở xa lại gần hơn. Tác dụng này của ống tele tương tự như ống nhòm cao cấp. Việc tiếp cận đối tượng từ xa hữu ích khi bạn không có điều kiện di chuyển hoặc muốn có những thước chụp tự nhiên mà không làm đối tượng chú ý.

Làm nổi bật đối tượng. Ống kính tele có thể tập trung vào một chi tiết cụ thể của đối tượng (khu vực lấy nét) trong khi không làm loãng hình bằng cách xóa phông rất hiệu quả.

Lý tưởng cho những thước chụp chân dung. Ống kính tele có khả năng cho những bức ảnh ở khoảng cách gần với độ nét rất cao, đồng thời khả năng xóa phông mịn màng của nó sẽ làm người xem không bị xao lãng khỏi đối tượng chính.

Một số ống tele được trang bị tính năng macro, rất hữu ích khi chụp những vật thể nhỏ mà không phải dí sát lại gần như trên máy du lịch.

Đẩy ISO lên cao và hạ thấp tốc độ màn trập khi sử dụng ống tele để hạn chế nhòe ảnh. Ảnh: Photoshosupport.
Đẩy ISO lên cao và hạ thấp tốc độ màn trập khi sử dụng ống tele để hạn chế nhòe ảnh.
Ảnh: Photoshosupport.

Khi mua và sử dụng ống kính tele, nên chú ý tới những điểm sau.

Thiết lập tốc độ màn trập thấp và nâng ISO lên mức cao. Ống tele thường gây rung rất lớn do sự rung của tay cầm máy hoặc do gió. Khi chụp với các ống này, người ta thường chỉnh thời gian phơi sáng xuống rất thấp hoặc dùng chân máy để hạn chế nhòe ảnh. Nguyên tắc chung để tính thời gian phơi sáng tối đa để ảnh không bị nhòe (đối với máy phim 35 mm) là lấy 1 chia cho tiêu cự ống ở đơn vị milimét. Ví dụ, thời gian phơi sáng đối với các ống 200 mm tối đa chỉ khoảng 1/200 giây nếu không sử dụng tripod. Giải pháp tốt nhất thường được áp dụng ở đây nâng ISO lên cao. Tuy nhiên cũng cần chú ý, nếu ISO quá lớn sẽ dẫn đến nhiễu ảnh (noise). Nói chung, bạn phải cân nhắc kĩ và biết điều tiết hợp lý hai thông số này tùy hoàn cảnh.

Hạn chế tối đa rung động của thân máy. Những rung lắc rất nhỏ do tay cầm máy hay do gió cũng sẽ bị "khuếch đại" lên khá lớn trên ảnh khi chụp bằng ống tele. Do vậy bạn nên sử dụng chân máy trong những tình huống chụp thiếu sáng. Đến nay, các hãng đã nhanh chóng tích hợp công nghệ chống rung ngay trong thân máy hoặc ống kính giúp tăng thời gian phơi sáng mà ảnh vẫn không bị nhòe. Công nghệ này cho phép tăng tốc độ chụp lên từ 2 đến 4 stop so với bình thường.

Độ sâu trường ảnh trên các ống tele thường rất nông. Hậu cảnh bị mờ đi rõ rệt. Ảnh: Flickr.
Độ sâu trường ảnh trên các ống tele thường rất nông. Hậu cảnh bị mờ đi rõ rệt. Ảnh: Flickr.

Điều chỉnh chính xác tiêu cự. Ống tele tạo ra độ sâu trường ảnh (DOF) rất nông khiến việc lấy nét trở nên vô cùng phức tạp. Ống tele lấy nét bằng tay (Manual Focus) thường khó sử dụng với những người mới bắt đầu. Do vậy, bạn nên đầu tư một ống kính hỗ trợ tự động lấy nét để sẵn sàng cho những thước chụp nhanh trong mọi tình huống.

Lựa chọn ống kính tele cho phù hợp mục đích và điều kiện tài chính là một việc không dễ dàng. Ảnh: Dpreview.
Lựa chọn ống kính tele cho phù hợp mục đích và điều kiện tài chính là một việc không dễ dàng.
Ảnh: Dpreview.

Mua những ống kính có độ mở lớn. Với ống kính nói chung, độ mở càng lớn đồng nghĩa với việc chất lượng quang học càng được cải thiện. Ngoài ra, độ mở lớn còn giúp máy chụp thiếu sáng tốt hơn, khả năng xóa phông mịn màng hơn. Tuy nhiên, giá tiền bạn phải trả sẽ tăng lên khá nhiều. Chẳng hạn, ống Canon EF 70-200mm f/4 L USM (non IS) có giá khoảng 800 USD, trong khi phiên bản cao cấp với mở f/2.8 của nó có giá lên tới 1.200 USD.

Teleconverter EC-20 2x của hãng Olympus. Ảnh: Letsgodigital.
Teleconverter EC-20 2x của hãng Olympus. Ảnh: Letsgodigital.

Sử dụng ống chuyển. Ống chuyển teleconverter là sự lựa chọn khả dĩ nếu kinh tế của bạn chưa cho phép đầu tư một tele xịn với mức giá trên trời. Loại thông dụng được bán hiện nay giúp đẩy tiêu cự ống kính nguyên bản lên 1.4x và 2x. Chẳng hạn, teleconverter 2x sẽ giúp ống 200 mm trở thành tele với tiêu cự 400 mm (có thể vươn xa hơn đa số ống kính tele hiện nay). Bù lại, bạn sẽ phải trả giá bằng việc ảnh sẽ tối đi trông thấy đồng thời chất lượng ảnh (bao gồm màu sắc và độ nét) cũng giảm theo. Do đó, nên đẩy cao tốc độ màn trập và sử dụng chân máy khi cần thiết.

Mộc Blog by source Trần Hạ

Phân loại ống kính cho máy ảnh DSLR

Có thể phân loại ống kính dựa vào 5 tiêu chí: Tiêu cự, theo đặc tính zoom của ống kính, căn cứ vào khẩu độ, theo cách lấy nét, chưa kể loại đặc biệt.

Ống kính được coi như "con mắt" của máy ảnh DSLR, là yếu tố quyết định cho bức ảnh đẹp về mặt vật lý... Với người dùng DSLR nói chung, ống kính thường được quan tâm nhiều hơn là thân máy, đồng thời, việc chi tiêu cho nó chiếm tỷ lệ lớn khi đầu tư thiết bị chụp ảnh.

Phân biệt bằng tiêu cự

Tiêu cự càng bé thì góc nhìn của ống kính càng rộng, ngước lại tiêu cự càng lớn thì góc nhìn của ống kính càng hẹp và có tác dụng
Tiêu cự càng bé thì góc nhìn của ống kính càng rộng, ngước lại tiêu cự càng lớn thì góc nhìn của ống kính càng hẹp và có tác dụng "kéo" các đối tượng ở xa lại gần hơn.

Tiêu cự ống kính (Focal Length) là khoảng cách từ tâm ống đến mặt phẳng chứa cảm biến khi canh nét tại vô cực và được tính bằng mm. Máy DSLR thường đánh dầu bằng hình tròn bị đường thẳng cắt ngang phía trên thân máy. Đây chính là nơi đánh dấu mặt phẳng chứa cảm biến đó.

Sẽ có 3 loại ống kính, nếu phân biệt bằng tiêu cự.

Ống kính góc độ rộng: Còn gọi là ống ngắn, thường tiêu cự bé hơn 50 mm, và gồm các loại có tiêu cự thông dụng như 35 mm (góc độ rộng 63 độ), ngắn hơn như 28 mm (góc độ rộng 75 độ), 24 mm (góc độ rộng 84 độ), 14 mm (góc độ rộng 135 độ). Hay các ống zoom như Canon 16-35 mm, Tokina 12-24 mm, Nikon 14-24 mm...

Ống kính càng ngắn thì góc độ thu hình càng rộng. Dùng ống kính góc rộng khi muốn chụp cảnh rộng hoặc đông người, cũng như chụp trong nhà khi phạm vi di chuyển bị hạn chế. Loại này thích hợp chụp phong cảnh trải dài, hội nghị, các lễ hội. Ống góc rộng thường cho vùng ảnh rõ, sâu, tuy nhiên, hình ảnh thường bị biến dạng và có chất lượng kém hơn ở rìa ảnh...

Ống kính tiêu chuẩn: để chỉ loại có tiêu cự 50 mm (góc độ rộng 46 độ), tương đương với góc nhìn của mắt con người. Ống kính này để chụp tổng quát cho các đề tài nó không quá rộng mà cũng không quá xa. Chủ đề thường được giữ đúng tỷ lệ và không bị biến dạng. Thường các ống 50 mm f1.8 khá rẻ (hơn 100 USD) và chụp chân dung cho ảnh chất lượng.

Niềm vui chiến thắng (Cầu thủ Trọng Hoàng sau khi ghi bàn nâng tỷ số lên 3-1 trong trận thắng của U23 Việt Nam trước U23 Trung Quốc). Ảnh chụp bởi ống tele tầm xa và đổ mở lớn (f2.8) 300mm f2.8 giúp chủ thể nổi bật trong hậu cảnh mờ.
Niềm vui chiến thắng - cầu thủ Trọng Hoàng sau khi ghi bàn nâng tỷ số lên 3-1 trong trận thắng của U23 Việt Nam trước U23 Trung Quốc. Ảnh chụp bởi ống tele tầm xa và đổ mở lớn (f2.8) 300 mm f2.8 giúp chủ thể nổi bật trong hậu cảnh mờ. Ảnh: Việt Hùng.

Ống kính tiêu cự dài hay ống kính tele là ống có tiêu cự từ 50 mm trở lên. Có thể tạm phân biệt các loại tele ngắn (thường từ 50 mm tới 105 mm), tele tầm trung (có tiêu cự tới khoảng 250 mm) và dài (trên 300 mm).

Ống kính tele có đặc điểm là vùng ảnh rõ cạn nên thường thích hợp chụp chân dung. Với khả năng "kéo" các vật ở xa trở thành gần nên thích hợp chụp lén, chụp các cảnh sinh hoạt mà không ảnh hưởng đến chủ thể khi không đứng gần, cũng như chụp phong cảnh ở những địa hình khó khăn, hiểm trở không dễ lại gần...

Những ống kính từ 300 mm trở lên thường thích hợp chụp động vật, thể thao... và đặc biệt dành cho những "tay săn ảnh" vì đối tượng bị chụp không hề biết. Giá những loại này cũng rất đắt.

Phân loại theo đặc tính zoom

Canon EF 85 mm f/1.8 USM.
Canon EF 85 mm f/1.8 USM.

Ống kính có tiêu cự cố định (Fix) là loại chỉ có duy nhất một tiêu cự, ví dụ Nikon AF 20 mm f/2.8D, EF 85 mm f/1.8 USM, Nikon AF 105 mm f/2D DC…

Nhờ ống fix được chế tạo bởi ít thấu kính mà chúng thường có chất lượng cao hơn ống kính zoom có chung tiêu cự. và thường mở được những khẩu lớn như f1.8, f1.4 thậm chí f1.2…, trong khi độ mở tối đã của ống zoom thường khoảng f2.8. Điều này không chỉ lợi khi chụp trong những hoàn cảnh thiếu sáng mà còn có những hiệu ứng đẹp do vùng ảnh rõ thường cạn khi chụp ở độ mở lớn. Nhưng cũng hạn chế do bạn phải zoom bằng… chân.

Ống kính đa tiêu cự (Zoom) là ống kính thay đổi được tiêu cự nên một zoom có thể thay thế cho nhiều ống kính tiêu cự cố định...

Ví dụ, ống zoom 28 - 70 mm có thể dùng với các tiêu cự 28, 35, 50, 70 mm. Trên thị trường có nhiều loại zoom, như 12 - 24; 17 - 35, 24 - 85 mm, 70 - 300 mm... Ống zoom tiện dụng để chụp trong nhà, phóng sự, biểu diễn, du lịch, phong cảnh. Tuy nhiên, cũng có một số yếu điểm so với ống kính tiêu cự cố định, như bị tối khi lấy nét vì không mở được khẩu độ tối đa như ống Fix, khó chụp hơn trong hoàn cảnh thiếu sáng và thường là nặng...

Nhưng với công nghệ ngày càng phát triển các ống kính zoom ngày càng có chất lượng cao hơn.

Căn cứ vào khẩu độ

Nikon AF-S 70-200mm 2.8ED VR - ống kính một khẩu.
Nikon AF-S 70-200mm 2.8ED VR - ống kính một khẩu.

Trên ống kíng thường ghi các trị số khẩu độ như sau: f1.4 - 2 2.8 - 4 - 5.6 - 8 - 11 - 16 - 22... Trị số khẩu độ (f) càng nhỏ, ống kính mở càng lớn nên cho ánh sáng vào càng nhiều. Hai trị số khẩu độ kế nhau, ví dụ f8 và f11 thì ở khẩu độ f8, ánh sáng vào nhiều gấp đôi f11.

Ống kính một khẩu độ là loại khi chụp ở mọi tiêu cự đều có thể sử dụng ở độ mở lớn nhất. Ví dụ, ống kính loại chụp ở 70 mm hay 200 mm đều có thể mở được khẩu f2.8. Chính vì vậy, nó thường đắt tiền, chuyên nghiệp hơn ống hai khẩu.

Ống kính hai khẩu độ, khi ở tiêu cự nhỏ có thể chụp ở khẩu độ lớn nhất nhưng khi ở tiêu cự lớn thì không thể chụp được mà chỉ chụp được ở khẩu độ nhỏ hơn.

Ví dụ, ống Canon EF 70-300 mm f/4-5.6 IS USM, khi chụp ở 70 mm bạn có thể mở khẩu f4, nhưng chụp ở 300 mm thì khẩu mở tối đa lại chỉ được f5.6.

Theo cách lấy nét

Có thể chia làm hai loại:

Lấy nét hoàn toàn bằng tay (Manual Focus: MF). Ở giai đoạn đầu của lịch sử nhiếp ảnh, ống kính chỉ có thể lấy nét bằng tay. Hiện nay, một số hãng vẫn sản xuất ống kính MF, như Leica, hoặc một số loại đặc biệt như Canon hay Nikon mà khó có thể làm AF.

Lấy nét tự động (Autofocus) - ống kính loại này là cuộc cọ sát giữa hiện đại và cổ điển. Ban đầu, các nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp không thật hào hứng đón chào. Tuy nhiên, sự tiện lợi và chính xác của nó đã làm khiến ống MF dần dần bị đẩy lùi.

Một số loại ống kính đặc biệt

Nước rút (thi điền kinh tại AIG III 2009). Ảnh chụp với ống mắt cá Nikon 10,5mm lấy được toàn cảnh khu thể thao trong nhà. Ảnh: Việt Hùng.
Nước rút (thi điền kinh tại AIG III 2009). Ảnh chụp với ống mắt cá Nikon 10,5 mm, lấy được toàn cảnh khu thể thao trong nhà. Ảnh: Việt Hùng.

Ống kính mắt cá (Fisheye). Đúng như tên gọi, loại ống này "nhìn đời" với góc rộng thông thường 180 độ, trong khi mắt người chỉ nhìn xung quanh được một góc 45 độ.

Do đó, khi lắp ống kính mắt cá vào máy ảnh, bạn có thể chụp được những bức hình toàn cảnh với góc bằng 180 độ, hoặc ít hơn một chút (tùy loại máy). Ống kính này dùng trong nhiều ứng dụng khác nhau, mặc dù có thể rất ít sử dụng, nhưng trong những trường hợp cần thiết thì mang lại hiệu quả rất rõ ràng.

Ôi! Nặng quá. Chụp bằng máy Nikon D90, ống AF micro 60 mm. Tác giả: Trương Đình Quỳ.
Ôi! Nặng quá. Ảnh chụp bằng máy Nikon D90, ống AF Micro 60mm f/2.8D. Tác giả: TDQuy (Trương Đình Quỳ).

Ống kính Macro có tỷ lệ phóng đại thường là 1:1 với vùng ảnh rõ rất cạn, thường cho nhưng người yêu thích thế giới vi mô chụp các vật thể nhỏ, côn trùng, hoa lá, chụp sản phẩm… hay kể cả trong chụp chân dung. Tuy nhiên, chụp chân dung cũng cần lưu ý kiểm soát vùng ảnh rõ vì nhiều khi chỉ cần chụp mắt rõ nét nhưng mũi đã mờ nhòe do đặc tính của ống kính.

Ống kính thay đổi phối cảnh - loại này có nhiều tên gọi. Hãng Nikon thì gọi là PC (Perspective Control) còn Canon thì đặt tên là TS (Tilt-Shift). Tuy nhiên, chúng đều có tác dụng giống nhau khi đều điều chỉnh các đường thẳng trong ảnh không theo quy luật xa gần do cấu trúc dịch chuyển thấu kính một cách đặc biệt.

Ngoài ra, có một số ống kính đặc biệt khác như DC hay ống trong y học của Nikon hoặc với thấu kính DO của Canon… Tuy nhiên, đây chủ yếu là những "trường hợp riêng" hoặc không còn phát triển nên không được đề cập tại đây.

Mộc blog by source Việt Hùng Sohoa

Mộc Blog by source

Carl Zeiss nâng cấp ống kính cho Nikon

Carl Zeiss vừa nâng cấp loạt ống kính prime mới cho Nikon hỗ trợ chế độ tự động thay vì chỉ chỉnh tay.
Những ống kính mới của Carl Zeiss. Ảnh: Dpreview.
Những ống kính mới của Carl Zeiss. Ảnh: Dpreview.

Vừa ra mắt ống kính cho Canon hồi đầu tháng, Carl Zeiss tiếp tục chiều lòng một đại gia khác trong làng máy ảnh DSLR bằng cách tung ra các phiên bản nâng cấp mới ZF.2 chấu F cho các máy thay ống kính của Nikon. Series mới này được trang bị thêm chấu giao diện điện tử (CPU) cho phép hỗ trợ toàn phần các chế độ chụp tự động và các thông tin liên quan đến ống kính vào định dạng EXIF thay vì chỉ là các ống cao cấp nhưng phải chỉnh tay cho Canon và Nikon.

Series ống kính bao gồm các ống 18mm / f3.5, 21mm / f2.8 , 35mm / f2, 50mm / f1.4, 50mm / f2 và 85mm / f1.4. Các ống cao cấp Distagon T* 28mm / f2 và ống Macro Planar T* 100mm / f2 sẽ được giới thiệu vào khoảng đầu 2010. Các phiên bản ống này sẽ có giá trong khoảng từ 545 Euro (815 USD) tới 1.386 Euro (khoảng 2.000 USD).

Mộc Blog by source Nguyễn Hà Sohoa

Những ống kính chất lượng của Nikon

Một ống kính tốt không chỉ cho những bức hình đẹp mà còn phải thỏa mãn nhiều yếu tố, như mức giá không quá cắt cổ mà khả năng lấy nét lại nhanh.

Đa số người dùng sẽ chọn ống kính rẻ với thân bằng nhựa nhưng chất lượng quang học tốt hơn là mua những ống kính kim loại hầm hố với một số tính năng thêm thắt mà chất lượng quang học chỉ ở mức tương đương.

Dưới đây là một số ống kính chất lượng của Nikon theo trang web Kenrockwell.

1. Nikon 50mm f/1.8 D

Nikon 50mm f/1.8D. Ảnh: Kenrockwell.
Nikon 50mm f/1.8D. Ảnh: Kenrockwell.

Ống kính tiêu chuẩn này được sản xuất từ năm 1978. Với trọng lượng chỉ 157 gram và kích thước hạn chế (63,5 × 39 mm), 50/1.8D là một trong những ống kính rẻ nhất của Nikon tính đến thời điểm hiện tại. Tuy mức giá rất "bèo" (khoảng 130 USD nếu mua mới), nhưng Nikon 50/1.8D cho chất lượng ảnh tốt, đặc biệt là độ nét và màu sắc. Mặc dù không được trang bị công nghệ lấy nét siêu thanh nhưng ống kính vẫn hoạt động rất nhanh và êm. So với những phiên bản trước đó (non D), nó có thêm khả năng tính toán khoảng cách bằng vi mạch tích hợp, giúp máy đo sáng và đánh đèn flash khá chính xác.

Được xếp vào "hàng top" trong số những ống kính có độ mở lớn của Nikon, sản phẩm hay được sử dụng để chụp chân dung và đời thường. Đây là ống kính cần thiết đối với đa số dân chơi ảnh kể cả khi đã có ống zoom trùng tiêu cự.

2. Nikon 18-55mm f/3.5-5.6 DX

Nikon 18-55mm f/3.5-5.6 DX. Ảnh: Kenrockwell.
Nikon 18-55mm f/3.5-5.6 DX. Ảnh: Kenrockwell.

Ống kính được sản xuất từ năm 2006, chỉ tương thích với dòng máy DX (cảm biến crop) của Nikon. Nikkor 18-55 cho ảnh nét đến mức nhiều người phải ngỡ ngàng vì mức giá quá khiêm tốn của nó, chỉ khoảng 180 USD nếu mua hàng mới.

Sản phẩm cho màu sắc tốt, tất nhiên không thể so với "đàn anh" Nikkor 17-55 mm f/2.8 với mức giá trên dưới 1.300 USD. Nhược điểm lớn nhất của ống kính là build "ẻo lả" do làm bằng nhựa, tốc độ lấy nét chưa được nhanh và độ mở nhỏ, chỉ thích hợp chụp ảnh phong cảnh hoặc đời thường. Khi chưa có điều kiện nâng cấp, đây là sự lựa chọn rất tốt cho bạn trong những chuyến đi xa vì ưu điểm nhỏ, nhẹ và cơ động.

Test Nikon 18-55mm f/3.5-5.6 DX phiên bản II trên Nikon D40. Ảnh thu được cực kỳ nét, ống kính có khả năng chụp ở khoảng cách gần tới 11,5 cm với độ phóng đại 1:3,2. Ảnh: Kenrockwell.

Nếu còn dư dả, bạn nên đầu tư một ống kính khác là Nikon 18-70mm f/3.5-4.5. Ống kính này cho ảnh nét và màu sắc tốt hơn phiên bản 18-55mm, dù giá cũng chỉ khoảng 350 USD đổ lại.

3. Nikon 18-200mm f/3.5-5.6 G ED

Nikon 18-200mm f/3.5-5.6 G ED. Ảnh: Kenrockwell.
Nikon 18-200mm f/3.5-5.6 G ED. Ảnh: Kenrockwell.

Ống kính được sản xuất từ năm 2005, chỉ tương thích với thân máy DX của Nikon. Bao trùm dải tiêu cự rất rộng (cả góc rộng và tele), Nikon 18-200 rất được dân du lịch ưa chuộng do đỡ phải tháo lắp ống kính trong quá trình chụp.

Sản phẩm cho độ nét cũng như khả năng xóa phông khá tốt. Ống kính gây méo nhẹ ở góc rộng nhất và hẹp nhất, tương đương tiêu cự 18 và 200 mm. Ảnh có màu tạm được dù chưa thật sự xuất sắc như ống fix hoặc các ống zoom cao cấp của Nikon. Tuy nhiên, bạn cũng không thể đòi hỏi hơn ở một ống kính có dải zoom lên tới 11x như vậy.

4. Nikon 135mm f/2 DC AF

Nikon 135mm f/2 DC AF. Ảnh: Kenrockwell.
Nikon 135mm f/2 DC AF. Ảnh: Kenrockwell.

Ống kính được sản xuất từ năm 1990. Tương tự Nikkor 50/1.8D, sản phẩm cũng được tích hợp vi mạch hỗ trợ lấy nét và đo sáng. Với độ mở lớn f/2 kết hợp công nghệ kiểm soát khoảng lấy nét (Defocus Control), ống kính cho độ nét, màu sắc cũng như khả năng xóa phông thuộc dạng "đỉnh cao" trong số những ống fix được sản xuất bởi Nikon. Ngoài ra, nó còn cho phép chỉnh bokeh theo ý muốn của người chụp.

Ảnh chụp bởi Nikon 135mm f/2 DC AF. Ảnh: Jeyfrey Franks.
Ảnh chụp bởi Nikon 135mm f/2 DC AF. Ảnh: Jeyfrey Franks.

Với mức giá trên dưới 1.300 USD, sản phẩm là sự lựa chọn lý tưởng cho những thước chụp chân dung và đời thường nếu bạn không ngại di chuyển để bố cục.

5. Nikon 14-24mm f/2.8 AF-S

Nikon 14-24mm f/2.8 AF-S trên thân máy D300. Ảnh: Kenrockwell.
Nikon 14-24mm f/2.8 AF-S trên thân máy D300. Ảnh: Kenrockwell.

Ống kính mới được Nikon sản xuất từ năm 2007. Sở hữu thân hình "hầm hố" với trọng lượng lên tới 1 kg và đường kính "ngoại cỡ" 98 mm, Nikon 14-24mm f/2.8 xứng đáng với tên gọi "Ông hoàng của zoom siêu rộng". Sản phẩm cho ảnh rất nét tại mọi tiêu cự, kể cả ở mép ảnh.

Ảnh chụp bằng Nikon D3, ống kính Nikon 14-24mm f/2.8 AF-S. Ảnh: Kenrockwell.
Ảnh chụp bằng Nikon D3, ống kính Nikon 14-24mm f/2.8 AF-S. Ảnh: Kenrockwell.

Ống kính là sự lựa chọn hoàn hảo khi lắp lên thân máy DX cao cấp như D300 và cả những dòng full-frame khác. Khi đã sở hữu ống kính này, có lẽ bạn nên "dẹp" những fix với tiêu cự 24mm, 20mm, 18mm, 17mm, 15mm và 14mm sang một bên. Đẳng cấp quá cao của sản phẩm cũng khiến nhiều fan của Canon phải vất vả mua thêm adapter (ống nối) để lắp nó lên thân máy của họ.

6. Nikon 85mm f/1.4 AI-s

Nikon 85mm f/1.4 AI-s. Ảnh: Kenrockwell.
Nikon 85mm f/1.4 AI-s. Ảnh: Kenrockwell.

Đa số ống kính lấy nét tự động thế hệ sau do Nikon sản xuất có chất lượng tốt hơn những phiên bản lấy nét thủ công AI-s trước đó. Tuy nhiên, điều này không đúng với trường hợp Nikon 85mm f/1.4 AI-s. Có mức giá gần 600 USD cho hàng "like-new", ống kính cho màu sắc và độ nét ấn tượng hơn hẳn "đàn em" 85mm f/1.4 D AF (hơn 1.000 USD). Nó cũng cho bokeh đẹp hơn đa số ống kính khác của Nikon. Lớp phủ mặt thấu kính của Nikon 85mm f/1.4 AI-s có lẽ chỉ thua kém chút ít so với công nghệ nano-crystal coating hiện đại nhất mà Nikon từng áp dụng trên ống kính 70-200 f/2.8 VR. Chất lượng sản phẩm tốt đến mức Nikon chỉ dừng chế tạo vào năm 2006, tức là 10 năm sau khi phiên bản lấy nét tự động ra đời.

Ảnh chụp bằng Nikon D90, ống kính Nikon 85mm f/1.4 AI-s. Ảnh: Nguyễn Tiến Hòa.
Ảnh chụp bằng Nikon D90, ống kính Nikon 85mm f/1.4 AI-s.
Ảnh: Nguyễn Tiến Hòa.

85mm f/1.4 AI-s hiện được dân chơi ảnh nghệ thuật lùng mua rất nhiều trên thị trường second-hand khiến nó trở nên đặc biệt khan hiếm.

7. Nikon 28mm f/1.4 D AF

Nikon 28mm f/1.4 D AF. Ảnh: Kenrockwell.
Nikon 28mm f/1.4 D AF. Ảnh: Kenrockwell.

Nikon đã dành tới 10 năm để hoàn thiện phiên bản 28 mm f/1.4 D AF. Ống kính cho ảnh rất nét ở mọi thiết lập khẩu độ, tại mọi điểm trên khung hình. Sản phẩm cũng cho chất lượng tốt hơn so với hai phiên bản lấy nét tay là 28mm f/2 và 35mm f/1.4. Nikon 28mm f/1.4 D cho vùng ảnh nét sâu hơn nhiều ống 50mm khi đặt cùng giá trị khẩu độ (f/stop). Ưu điểm này giúp bạn có được những bức ảnh đời thường, phong cảnh hoặc chân dung nét đều khi chụp trong điều kiện thiếu sáng.

Sự phát triển của các ống zoom chất lượng cao và công nghệ kĩ thuật số với khả năng điều chỉnh ISO đã khiến phiên bản 28mm f/1.4 D dần mất chỗ đứng trên thị trường. Nikon đã dừng sản xuất ống kính vào năm 2006. Sản phẩm hiện không còn hàng mới và cũng khó kiếm trên thị trường second-hand. Tính đến thời điểm 2008, giá của Nikon 28mm f/1.4 D AF là hơn 4.000 USD.

8. Nikon ED 70-180mm f/4.5-5.6 D AF Micro

Nikon ED 70-180mm f/4.5-5.6 D AF Micro. Ảnh: Kenrockwell.
Nikon ED 70-180mm f/4.5-5.6 D AF Micro. Ảnh: Kenrockwell.

Có những ống kính đặc biệt đến mức trên thị trường hầu như không thấy sự có mặt của nó. Điều này đúng với phiên bản macro zoom có một không hai của Nikon: 70-180mm f/4.5-5.6. Hãng chỉ chế tạo khoảng 20.000 ống kính loại này trong thời gian từ năm 1997 đến năm 2004. Tỷ lệ phóng đại lớn nhất mà nó đạt được là 1:1,32, tương ứng với tiêu cự 180 mm. Khả năng chụp macro mà lại zoom được của ống rất hữu ích vì không phải di chuyển máy ảnh để bố cục hình. Cấu tạo 9 lá khẩu cho bokeh rất đẹp và mịn màng.

Ảnh chụp bằng Nikon ED 70-180mm f/4.5-5.6 D AF Micro. Ảnh: Redgum.
Ảnh chụp bằng Nikon ED 70-180mm f/4.5-5.6 D AF Micro. Ảnh: Redgum.

Chất lượng rất cao của ống này khiến nhiều dân chơi ảnh mơ ước từng một lần được sử dụng dù giá không thể dưới 2.000 USD cho hàng cũ. Hiện tại, hầu như khó có thể kiếm được sản phẩm này trên thị trường.

9. Nikon 13mm f/5.6

Nikon 13mm f/5.6. Ảnh: Kenrockwell.
Nikon 13mm f/5.6. Ảnh: Kenrockwell.

Khi mới ra đời, Nikon 13mm f/5.6 từng là ống kính góc rộng nhất. Cho đến nay, nó vẫn là phiên bản ống kính góc rộng nhất không gây méo hình từng được sản xuất trong lịch sử. "Hàng khủng" này nặng tới 1,4 kg và có đường kính 12 cm. Mặc dù có tiêu cự 13 mm song đây không phải là một fisheye, thậm chí méo hình nó gây ra còn thấp hơn cả những ống zoom hay ống góc rộng khác. Trong thời gian từ năm 1976 đến 1998, Nikon chỉ sản xuất khoảng vài trăm phiên bản loại này.

Ảnh chụp bằng Nikon D3, ống kính Nikon 13mm f/5.6. Ảnh: Kenrockwell.
Ảnh chụp bằng Nikon D3, ống kính Nikon 13mm f/5.6. Ảnh: Kenrockwell.

Sigma cũng có một phiên bản zoom với mức giá vừa phải hơn là 12-24 mm, tuy nhiên, chất lượng của sản phẩm này không thể nào sánh với "đại gia" của Nikon. Ngoài 13mm f/5.6, Nikon cũng sản xuất hai ống cực rộng khác là 14mm f/2.8 và 14-24mm AF-S, tuy nhiên, chúng gây méo hình khá nhiều.

10. Nikon 28-80 mm f/3.3-5.6 G và Nikon 28-200 mm f/3.5-5.6 G

Nikon 28-80mm f/3.3-5.6 G (trái) và Nikon 28-200mm f/3.5-5.6 G (phải). Ảnh: Kenrockwell.
Nikon 28-80mm f/3.3-5.6 G (trái) và Nikon 28-200mm f/3.5-5.6 G (phải). Ảnh: Kenrockwell.

Đây là những ống kính rẻ được Nikon sản xuất vào năm 2001 và 2003 đi kèm với máy phim cũng có giá rất bèo như N55 và N75. Thành phần thấu kính phi cầu giúp tăng chất lượng ảnh đồng thời giảm kích cỡ và trọng lượng của cả hai ống kính. 28-80 mm và 28-200 mm thích hợp khi mang đi du lịch dài ngày, dù rằng dải tiêu cự bắt đầu từ 28 mm khiến nhiều người băn khoăn. Cả hai ống kính đều cho ảnh nét, kể cả tại mép ảnh. Không nên lẫn chúng với phiên bản 24-120mm VR vốn cho ảnh rất tệ.

Nikon 28-200 mm f/3.5-5.6 G có thể lấy nét gần (khoảng 43 cm) tại mọi tiêu cự, vượt trội hơn mọi ống kính tele khác của Nikon. Lấy nét dù chậm nhưng cũng đủ dùng và khá "tươm" so với mức giá của ống. Tuy nhiên, ống gây nhiều biến dạng tại mép ảnh, đặc biệt khi sử dụng với thân máy full-frame.

Nikon 28-80 mm f/3.3-5.6 G cũng có thể lấy nét rất gần. Tự động lấy nét nhanh hơn tất cả những ống kính AF khác của Nikon, kể cả dòng AF-S. Ảnh chụp tại khoảng cách gần nhất nét đến mức bạn có thể crop để sử dụng như một tác phẩm macro thực thụ.

11. Nikon 80-200mm f/4.5n AI

Nikon 80-200 mm f/4.5n. Ảnh: Kenrockwell.
Nikon 80-200 mm f/4.5n. Ảnh: Kenrockwell.

Với mức giá không quá 200 USD, 80-200 mm AI là tele zoom nét nhất mà tác giả Kenrockwell từng được thử nghiệm. Được sản xuất trong khoảng thời gian khá ngắn ngủi (1977-1981), sản phảm từng được nhiều nhiếp ảnh gia sử dụng để chụp thể thao và các cảnh hành động. Nikon đã chế tạo 80-200 AI với sự chính xác và tinh vi tuyệt vời đến mức nó cần bôi trơn rất ít khi vận hành, do đó ống kính có thể hoạt động ở nhiệt độ cực thấp. Mặc dù có giá không quá cao song rất khó tìm sản phẩm này trên thị trường.

Mộc Blog by source Trần Hạ Sốhoá

Đua pixel nhường chỗ cho cuộc chiến ISO

Những phiên bản chuyên nghiệp mới nhất từ Canon và Nikon đã hỗ trợ mức ISO trên 100.000. Sớm muộn, máy ảnh ra sau cũng sẽ theo chân xu hướng này.

Thông số quan trọng nhất ảnh hướng tới lượng máy ảnh bán ra trong thời đại kỹ thuật số từng là số triệu điểm ảnh. Bạn có thể thấy vô số quảng cáo từ những siêu thị lớn hay trên truyền hình đã ảnh hưởng đến người tiêu dùng thế nào khi mà nếu trao đổi về máy ảnh, câu đầu tiên họ hỏi sẽ là: Máy ảnh này mấy "chấm".

Khi công nghệ ảnh số phát triển cũng là lúc số điểm ảnh trở nên nổi trội hơn so với các thông số khác, và thông số này bắt đầu được quan tâm khi những người chụp ảnh đem ra so sánh máy phim của họ với khả năng hiển thị hỉnh ảnh của những cảm biến thuở ban đầu. Nhưng có một điều trớ trêu nho nhỏ, đó là kể cả khi so sánh như vậy, cũng khó có thể tìm được người nào đi vào các cửa hàng máy ảnh mua một cuộn phim Ektachrome hay Fujichrome và hỏi người bán hàng xem độ hạt của phim hay độ phân giải của phim là bao nhiêu. Liệu có bao nhiêu người chụp ảnh từng thực sự nhìn vào các thông số chi tiết in rõ ràng trên mỗi hộp phim?

Cảm biến nhiều triệu điểm ảnh sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu như máy ảnh không có một hệ thống xử lý hình ảnh tương xứng với số điểm ảnh đó. Đây là bộ xử lý hình ảnh Expeed của Nikon D3x, có thể xử lý tốt 24,5 triệu điểm ảnh Full Frame ở tốc độ 5 khung hình/giây.

Những ngày đầu

Khi công nghệ số phát triển, thông số độ phân giải đột nhiên trở nên vô cùng quan trọng. Một phần bởi độ phân giải của những máy ảnh số đầu tiên không được tốt cho lắm. Khi máy ảnh bắt đầu đạt tới ranh giới 1 triệu điểm ảnh, có cảm tưởng như công nghệ số đã bắt đầu một làn sóng mới. Trong ngành công nghiệp ảnh, các phương pháp tính toán độ phân giải của phim bắt đầu xuất hiện và nó cũng chẳng tồn tại lâu trước khi những so sánh về mặt lý thuyết của số điểm ảnh trên phim so với cảm biến được thể hiện trên ảnh in.

Ở giai đoạn này, thiết kế máy ảnh đã trải quả một kiểu trải nghiệm tự do chưa từng có trước đây. Không cần phải có những ngăn chứa phim, các nhà thiết kế có thể thoải mái tưởng tượng những mẫu máy ảnh đời mới sẽ như thế nào. Đó là cuối những năm 1990. Lúc này, hầu hết những nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp vẫn chỉ đứng ngoài lề để xem máy ảnh số sẽ ra sao. Máy ảnh số thời đó chủ yếu cho giới khách hàng bình dân hay phục vụ các mục đích khoa học mà chưa tiến tới được tầm chuyên nghiệp.

Kể cả trong giai doạn sơ khai của cuộc cách mạng ảnh số này, cuộc chiến về số điểm ảnh cũng đã bắt đầu được khơi mào. Đầu tiên là 1 triệu điểm ảnh, rồi đến 2 triệu. Ở mức 2 triệu, bắt đầu xuất hiện những lời bán tán hay những câu hỏi đối với các nhà sản xuất, liệu 2 triệu điểm ảnh đã đủ cho hầu hết nhu cầu nhiếp ảnh hay chưa. Câu trả lời nhận được thời bấy giờ cũng tương tự như khi người ta hỏi Bill Gate về bộ nhớ cho máy tính bao nhiêu là đủ. Và câu trả lời đã trở nên nổi tiếng là "640K là đủ cho tất cả mọi người".

Thông số hoàn hảo

Tiếp thị một công nghệ mới không dễ dàng gì. Làm sao có thể thuyết phục những khách hàng tiềm năng về những lợi ích mà họ còn không biết có cần thiết không. Ai cũng có máy ảnh cả. Phim không rẻ, nhưng người ta sẵn sàng bỏ tiền cho việc mua và tráng ảnh, bởi lẽ in ảnh ở nhà cũng khó khăn hơn mà chất lượng lại không đẹp bằng. Internet vẫn chưa bị tràn ngập bởi Facebook và Flickr, thế giới vẫn còn đang trong giai đoạn kết nối quay số. Trong bối cảnh này, các bộ phận tiếp thị cần phải có một thứ gì đó thật dễ hiểu, dễ nhớ và là yếu tố có thể so sánh một cách trực tiếp và ngay lập tức. Đó chỉ có thể là một con số. Đột nhiên trong hàng loạt các thông số rối rắm kia, số triệu điểm ảnh nổi lên như một chiếc cọc cứu sinh.

Độ phân giải từ đó đã dần leo leo thang. Từ 2 triệu thuở ban đầu lên tới hơn 20 triệu điểm ảnh ngày nay. Dù đâu đó vẫn còn có những so sánh với phim, nhưng hầu như những tranh luận kiểu này đang ngày càng biến mất. Giờ đây, nếu bạn muốn chụp phim là bởi vì bạn thích nó, bạn nghĩ là bạn sẽ có một bức ảnh đẹp hơn, vì thế mà bạn chọn nó. Chẳng còn ai tranh luận xem ảnh phim và ảnh số công nghệ nào thăng thế nữa. Cuộc chiến giờ đã kết thúc. Các nhà sản xuất như Kodak hay Fujifilm đã làm ra những cuộn phim chất lượng tuyệt với và chúng ta hoàn toàn có thể hy vọng rằng họ sẽ vẫn tiếp tục lộ trình này, bởi lẽ luôn có nhiều nhiếp ảnh gia vẫn gắn bó và vẫn muốn theo đuổi sự nghiệp chụp phim. Nhưng ngày nay, cảm biến số đã đủ tốt để chứng tỏ hình ảnh của công nghệ nào xuất sắc hơn trong cuộc tranh luận đầy ý nghĩa này.

Ngày nay, đã có quá thừa máy DSLR đủ số điểm ảnh cần thiết để in ra bất cứ kích cỡ ảnh nào. Các phiên bản từ 12 đến 24 triệu pixel chiếm nhiều nhất trên thị trường, tập trung vào giới chuyên nghiệp cũng như giới bán chuyên. Nếu bạn cẩn thận và tính toán kỹ hơn, bạn có thể thấy thực ra, độ phân giải như vậy vẫn chưa đủ khi in ảnh ra các kích thước lớn hơn và nghĩ rằng chắc để in ảnh ra to nữa thì vẫn cần phải tạo ra những máy ảnh nhiều triệu điểm ảnh hơn. Suy luận này cũng hợp lý, nếu như bạn chỉ nhìn một cách đơn giản vào độ phân giải nội tại. Vấn đề là độ phân giải nội tại này không phải lúc nào cũng bị hạn chế như vậy. Để tạo độ phân giải lớn hơn, người ta còn dùng đến khả năng nội suy.

Công nghệ nội suy

Phase OneP40+ là một máy medium-format với độ phân giải 40 triệu điểm ảnh và cảm biến Sensor+ có thể đổi giữa 40 triệu pixel và 10 triệu pixel. Ảnh: Digitalphotography.
Phase OneP40+ là một máy medium-format với độ phân giải 40 triệu điểm ảnh và cảm biến Sensor+ có thể đổi giữa 40 triệu pixel và 10 triệu pixel. Ảnh: Digitalphotography.

Những tay máy chuyên nghiệp có thể bối rối với thuật ngữ nội suy hình ảnh để có độ phân giải cao hơn độ phân giải nội tại. Từ "nội suy" thực ra đã được hiểu theo nghĩa hạn chế đi rất nhiều.

Thuật ngữ nội suy vốn bị mang tiếng xấu do ở những giai đoạn đầu khi mà cảm biến còn đang đánh vật với cuộc chiến độ phân giải cao, khi đó người ta đã ứng dụng công nghệ nội suy sao cho cảm biến 3 triệu điểm ảnh có thể cho ra những bức ảnh tới 10 triệu điểm ảnh. Nếu bạn thử tăng độ phân giải thông qua phần mềm nội suy, bạn sẽ có một file lớn hơn, nhưng ở một khía cạnh nào đó, các phần mềm nội suy không thể thu thập đủ thông tin cần thiết để tăng số điểm ảnh, vì thế hình ảnh cuối cùng thường bị vỡ, chất lượng bị suy giảm nghiêm trọng. Do đó, những tay chuyên nghiệp vốn theo sát trao lưu công nghệ số từ đầu sẽ chỉ nhớ việc khách hàng luôn than phiền về những bức ảnh bị đẩy độ phân giải bằng công nghệ nội suy khiến cho chất lượng ảnh kém đi.

Nhưng nếu nhìn thuật ngữ nội suy trong bối cảnh các máy DSLR cao cấp hiện nay thì sẽ thấy một câu chuyện hoàn toàn khác. Ở 12 triệu điểm ảnh trở lên, file ảnh số sẽ có dung lượng khoảng hơn 40MB. Dung lượng như vậy chứa rất nhiều dữ liệu. Giả dụ bạn lại chụp bằng định dạng RAW, file ảnh xuất ra gần như sẽ không phải qua một thao tác xử lý nào (dù thực chất, ảnh RAW cũng đã được xử lý và nén một phần). Với số lượng dữ liệu lớn như vậy, các phần mềm nội suy có thể thực thi công việc của mình tốt hơn nhiều. Về cơ bản, các phần mềm nội suy chỉ làm việc trên dữ liệu. Càng nhiều dữ liệu, kết quả càng tốt. Thêm vào đó, tỷ lệ không mang tính chất tuyến tính. Một file ảnh RAW có dữ liệu nhiều gấp 4 lần sẽ cho ra file ảnh nhiều thông tin hơn là tỷ lệ 4 lần đó.

Vì thế bạn có thể thấy ngay, thật khó cho là số triệu điểm ảnh ngày nay là chưa đủ. Tất nhiên các nhà sản xuất máy ảnh mới chỉ đang miễn cưỡng kéo chậm lại cuộc đua điểm ảnh bởi lẽ, xét trên góc độ thị trường, điểm ảnh vẫn là điểm nhất của một máy ảnh khi họ quảng bá về thông số cho khách hàng. Đặc biệt, kể cả về góc độ kinh tế cũng khó mà có thể đưa ra được một lập luận về việc cần xem xét lại cuộc đua điểm ảnh, nhưng các hãng vẫn không từ bỏ bởi những nguyên nhân sâu xa hơn.

Sẽ có cuộc chiến ISO thay vì điểm ảnh?

Khi cuộc đua triệu điểm ảnh quan trọng hơn là tốc độ, các máy medium-format luôn là quán quân. Với cảm biến kích cỡ 56 x 36 mm, phiên bản Leaf AFi-II 10 chụp ảnh với độ phân giải 56 triệu điểm ảnh với kích cỡ hình ảnh đạp 9.288 x 6.000 pixel ở tốc độ 1 khung hình/giây. Ảnh: Digitalphotopro.
Khi cuộc đua triệu điểm ảnh quan trọng hơn là tốc độ, các máy medium-format luôn là quán quân. Với cảm biến kích cỡ 56 x 36 mm, phiên bản Leaf AFi-II 10 chụp ảnh với độ phân giải 56 triệu điểm ảnh với kích cỡ hình ảnh đạp 9.288 x 6.000 pixel ở tốc độ 1 khung hình/giây. Ảnh: Digitalphotopro.

Khi số điểm ảnh càng tăng, số nhiễu và các yếu tố giảm chất lượng hình ảnh cũng tăng theo. Khả năng bắt hình cũng vì thế sẽ trở nên khó khăn hơn. Cảm biến hình ảnh sẽ nóng hơn (cần phải tỏa nhiệt) và năng lượng vì thế sẽ phải tiêu tốn nhiều hơn. Để hỗ trợ giải quyết vấn đề này, các hãng máy ảnh bắt đầu phát triển những bộ xử lý hình ảnh tiên tiến như DIGIC (của Canon), EXPEED (Nikon) hay BIONZ (Sony) nhằm thực thi nhiệm vụ giải quyết các vấn đề gây ra bởi tình trạng càng ngày càng nhiều triệu điểm ảnh nhồi nhét vào kích cỡ cố định của cảm biến. Thực tế, cảm biến và bộ xử lý hình ảnh ngày càng trở nên hoàn hảo đến nỗi trong các tuyên bố gần đây của cả Canon và Nikon, hai hãng này đều cho biết các thế hệ mới đã đẩy được độ nhạy sáng (ISO) lên trên mức 100.000.

Cảm biến 24,5 triệu điểm ảnh của Sony DSLR A900 tương tự của D3X với bộ xử lý Bionz do hãng phát triển. Ảnh: Digitalphotopro.
Cảm biến 24,5 triệu điểm ảnh của Sony DSLR A900 tương tự của D3X với bộ xử lý Bionz do hãng phát triển. Ảnh: Digitalphotopro.

Câu hỏi hiện nay là, liệu thay vì cuộc chiến triệu điểm ảnh, nhà sản xuất có đang bắt đầu đổi hướng trọng tâm của mình trong công cuộc tạo ra những bức ảnh trong hơn, ít nhiễu hơn và hiển thị màu săc đẹp hơn? Rõ ràng, nhà sản xuất nào cũng muốn đạt được mục tiêu như vậy, bằng chứng là họ đã phát triển những thiết bị phần cứng và phần mềm hỗ trợ đầy ấn tượng cho các máy ảnh của họ. Nhưng liệu thay vì ganh đua về điểm ảnh, họ có đang manh nha một cuộc ganh đua nào khác không?

Trong ngành công nghiệp ôtô, có hai yếu tố chính mà các nhà sản xuất luôn sử dụng để tạo sự khác biệt với đối thủ: công suất và tiêu thụ nhiên liệu. Khi xăng bắt đầu rẻ hơn, bạn có thể thấy chỉ còn các quảng cáo về công suất mỗi khi ra sản phẩm mới. Nhưng khi xăng dầu đắt đỏ, công suất lại bị chìm dẫn và mức tiêu thụ nhiên liệu lại bắt đầu lên ngôi.

Tương tự, ngành công nghiệp máy ảnh đã dựa quá nhiều vào số triệu điểm ảnh (như với công suất) bấy lâu nay. Với các cải tiến mới có thể đẩy ISO lên mức trên 100.000, có thể dự đoán ngành công nghiệp máy ảnh cũng bắt đầu tìm được một tiêu chí khác để quảng cáo, tương tự như mức tiêu thụ năng lượng trong ngành công nghiệp ô tô vậy.

Liệu cuộc chiến điểm ảnh đã chấm dứt? Khó có thể biết được. Chỉ có điều chắc chắn rằng, bạn luôn muốn máy ảnh càng nhiều triệu điểm ảnh càng tốt. Nhưng các file ảnh có độ phân giải cao mà lại bị nhiều nhiễu cũng sẽ khó mà sử dụng được. Với năng lực ống kính đã tiến dần tới giới hạn cũng như vấn đề nhiễu trên cảm biến, giờ có lẽ là lúc chuyển từ số triệu điểm ảnh sang mục tiêu nhiễu ít, ISO cao và không bị các hiệu ứng giả tạo. Với số điểm ảnh hiện tại, nếu như nhiễu được giảm thiểu thì công nghệ nội suy thậm chí có thể tạo ra những file ảnh có độ phân giải lớn hơn nhiều.

Có vẻ như các nhà sản xuất cũng đang bắt đầu rục rích cho một cuộc thay đổi. Hiện tại những phiên bản chuyên nghiệp mới nhất từ Canon và Nikon như EOS-1D Mark IV và D3S đã hỗ trợ mức ISO trên 100.000 và sớm muộn có lẽ các máy ảnh ra sau cũng sẽ theo chân xu hướng này. Theo đã phát triển công nghệ, chúng ta đều có quyền hy vọng rằng hình ảnh số sau này sẽ ngày càng ít nhiễu hơn, xử lý hỉnh ảnh trong máy tốt hơn với những cảm biến tiên tiến hơn, nhất là khi DSLR đang bắt đầu bước vào thời kỳ phục hưng của chính mình.


Mộc Blog by source Nguyễn Hà Sohoa

Máy ảnh Canon EOS 50D và len Kit 18-200 IS

Canon 50D


Canon 50D


Canon 50D Bottom

Caon 50D, right sideCanon 50D, left side

Loại máy

CANON EOS-50D KIT 18-200 IS

Loại máy

Máy ảnh kỹ thuật số hệ AF/AE ống kính phản xạ đơn có đèn flash lắp sẵn bên trong máy

Phương pháp ghi hình

Thẻ CF loại I và II, các loại thẻ CF mô phỏng UDMA, có thể ghi hình vào thiết bị USB bên ngoài thông qua thiết bị chuyển file không dây (WFT-E3)

Kích thước bộ cảm biến hình ảnh

22,3mm x 14,9mm

Ống kính tương thích

Ống kính EF của Canon (bao gồm các ống kính EF-S)(Chiều dài tiêu cự tương ứng 35mm xấp xỉ bằng 1.6 x độ dài tiêu cự ống kính)

Giá đặt ống kính

Giá EF của Canon

Bộ cảm biến chụp hình


Loại

Bộ cảm biến CMOS đĩa đơn cỡ rộng có độ phân giải và độ nhạy cao

Điểm ảnh

Các điểm ảnh hiệu quả:

xấp xỉ 15.10 megapixels

Tổng số điểm ảnh:

xấp xỉ 15.50 megapixels

Tỉ lệ co

3:2 (Ngang:Dọc)

Hệ thống lọc màu

Bộ lọc màu cơ bản RGB

Bộ lọc màu low-pass

Được gắn cố định phía trước bộ cảm biến CMOS

Tính năng loại bỏ bụi bẩn

1) Tính năng làm sạch bộ cảm biến tự động
2) Tính năng làm sạch bộ cảm biến bằng tay
3) Tính năng loại bỏ bụi bẩn bám trên dữ liệu của ảnh chụp

Hệ thống ghi hình


Định dạng ghi hình

Quy tắc thiết kế dành cho hệ file máy ảnh 2.0 và Exif 2.21

Loại ảnh

JPEG, RAW (14-bit, ảnh gốc của Canon), sRAW, RAW+JPEG

Kích thước file

Ảnh cỡ rộng/ Ảnh đẹp:

Xấp xỉ 5.0MB (4752 x 3168 pixels)

Ảnh cỡ rộng/ Ảnh thường:

Xấp xỉ 2.5MB (4752 x 3168 pixels)

Ảnh cỡ trung/ Ảnh đẹp:

Xấp xỉ 3.0MB (3456 x 2304 pixels)

Ảnh cỡ trung/ Ảnh thường:

Xấp xỉ 1.6MB (3456 x 2304 pixels)

Ảnh cỡ nhỏ/ Ảnh đẹp:

Xấp xỉ 1.7MB (2352 x 1568 pixels)

Ảnh cỡ nhỏ/ Ảnh thường:

Xấp xỉ 0.9MB (2352 x 1568 pixels)

Ảnh RAW:

Xấp xỉ 20.2MB (4752 x 3168 pixels)

Ảnh RAW+Cỡ rộng/ Ảnh đẹp:

Xấp xỉ 20.2+5.0MB (4752 x 3168 pixels)

Ảnh sRAW 1:

Xấp xỉ 12.6MB (3267 x 2178 pixels)

Ảnh sRAW 1+Ảnh cỡ rộng/ Ảnh đẹp:

Xấp xỉ 12.6+5.0MB (3267 x 2178 pixels)

Ảnh sRAW 2:

Xấp xỉ 9.2MB (2376 x 1584 pixels)

Ảnh sRAW 2+Ảnh cỡ rộng/ Ảnh đẹp:

Xấp xỉ 9.2+5.0MB (2376 x 1584 pixels)

* Kích thước chính xác của file sẽ phụ thuộc vào vật, tốc độ ISO, kiểu ảnh, vv

Các chức năng ghi hình

Khi sử dụng WFT-E3, ảnh sẽ được ghi vào thẻ CF và thiết bị USB bên ngoài nối với WFT-E3 như sau
(1) Tiêu chuẩn
(2) Tự động nối với thiết bị ghi hình
(3) Các ảnh ghi riêng rẽ theo chất lượng ảnh chụp
(4) Ghi các ảnh giống nhau vào cùng 2 phương tiện ghi hình

Ghi hình sao lưu

Có thể ghi hình sao lưu khi sử dụng WGT-E3

Đánh số file

Đánh số liên tiếp, cài đặt tự động, cài đặt bằng tay. Có thể tạo ra các thư mục mới và lựa chọn thư mục trên thẻ CF để lưu các ảnh chụp

Tính năng ghi hình đồng thời RAW+JPEG

Có sẵn (có thể ghi hình sRAW+JPEG)

Không gian màu

sRGB, Adobe RGB

Loại ảnh

Ảnh tiêu chuẩn, ảnh chân dung, ảnh phong cảnh, ảnh trung tính, ảnh thực, ảnh đơn sắc, ảnh User Dè.1-3

Xử lý hình ảnh


Loại

Cài đặt tự động, Ánh sáng ban ngày, Bóng, Có mây, ánh đèn tròn, ánh đèn huỳnh quang, đèn flash, tự chọn, nhiệt màu

Cân bằng trắng tự động

Tự động cân bằng trắng với bộ cảm biến hình ảnh

Tính năng bù nhiệt màu

Chỉnh sửa cân bằng trắng:

±9 điểm với dung sai đủ điểm

Gộp cân bằng trắng:

±3 điểm với dung sai đủ điểm

* Hướng xanh da trời/màu hỗ phách hoặc màu đỏ tươi/xanh lá cây

Truyền thông tin nhiệt màu

Có sẵn

Kính ngắm


Loại

Lăng kính năm mặt có điểm đặt mắt

Phạm vi bao phủ

Dọc/ Ngang xấp xỉ 95%

Độ phóng đại

Xấp xỉ 0.95x (-1m-1 với ống kính 50mm ở vô cực)

Điểm đặt mắt

Xấp xỉ 22mm (tính từ tâm ống kính thị kính)

Điều chỉnh khúc xạ bên trong máy

từ -3.0 tới +1.0m-1 (điốt)

Màn hình ngắm

Có thể thay thế (Ef-D: Các đường lưới, Ef-S {điểm của tiêu điểm), có sẵn màn hình ngắm lấy tiêu điểm tiêu chuẩn

Gương ngắm

Gương nửa trả về nhanh (truyền: tỉ lệ phản chiếu 40:60, không có gương giới hạn với EF600mm f/4L IS USM hoặc ống kính ngắm hơn)

Các thông tin về kính ngắm

Thông tin AF (các điểm AF, ánh sáng xác nhận tiêu cự), thông tin độ sáng (tốc độ màn trập, khẩu độ, tốc độ ISO, khoá AE, mức sáng, chu trình quét sáng điểm), thông tin đèn Flash (đèn flash sẵn sàng, bù sáng đèn flash, xung tốc độ cao, khoá FE, đèn giảm hiện tượng đỏ mắt), các thông tin ảnh (ưu tiên màu nổi, chụp đơn sắc, lượng ảnh chụp tối đa, chỉnh sửa cân bằng trắng, thông tin thẻ CF)

Tính năng xem trước depth-of-field

Được trang bị với phím nhấn xem trước depth-of-field

Tính năng lấy tiêu cự tự động


Loại

Bộ cảm biến CMOS dành cho AF TTL-CT-SIR

Các điểm AF

9 (loại ngang)

Phạm vi quét sáng

EV -0.5 – 18 (ở 73°F/23°C, ISO 100)

Các chế độ lấy tiêu cự

Chế độ tự động, lấy AF một ảnh, AF AI Servo tiên đoán, AF tiêu cự AI, lấy tiêu cự bằng tay (MF)

Lựa chọn điểm AF

Tự động lựa chọn hoặc lựa chọn bằng tay

Hiển thị điểm AF lựa chọn

Được đặt trên kính ngắm và hiển thị trên màn hình LCD

Tia sáng hỗ trợ AF

Có một loạt các ánh đèn flash nhỏ được chiếu từ đèn flash lắp sẵn bên trong máy

Phạm vi hiệu quả

xấp xỉ 13.1 ft/4.0m ở trung tâm, xấp xỉ 11.5 ft/3.5m ở vùng ngoại vi

Điều chỉnh độ sáng


Các chế độ quét sáng

Quét sáng đủ khẩu độ TTL 35 vùng

Quét sáng toàn bộ (kết hợp với toàn bộ điểm AF)

Quét sáng từng phần (xấp xỉ 9% kính ngắm ở vùng trung tâm)

Quét điểm (xấp xỉ 3,8% kính ngắm ở vùng trung tâm)

Quét trung bình trọng tâm ở vùng trung tâm

Phạm vi quét sáng

EV 0 – 20 (ở 73°F/23°C với ống kính EF50mm f/1.4 USM, ISO 100)

Điều chỉnh độ sáng

Chương trình AE (có thể dịch chuyển), AE ưu tiên màn trập, AE ưu tiên khẩu độ, AE depth-of-view, tự động sáng tạo, tự động hoàn toàn, các chế độ kiểm soát hình ảnh đã được lập trình (chân dung, phong cảnh, cận cảnh, thể thao, chân dung đêm, không có đèn flash), điều chỉnh ảnh sáng bằng tay, chương trình AE đèn flash tự động E-TTL II

Tốc độ ISO

Tự động cài đặt:

ISO 100 – 3200 (dung sai 1/3 hoặc 1 điểm)

Các chế độ vùng cơ bản:

tự động cài đặt ISO 100 – 1600

Có thể cài đặt mở rộng (với C.Fn.I-3-1):

ISO 6400, ISO 12800

Có thể cài đặt ưu tiên tông màu cao:

ISO 200 – 3200

Bù sáng

Bằng tay: ±3 điểm với dung sai 1/3 hoặc 1/2 điểm (có thể kết hợp với AEB)

Khoá AE

Tự động:

áp dụng với chế độ AF chụp một ảnh với tính năng quét sáng toàn bộ khi lấy được tiêu cự.

Bằng tay:

Sử dụng phím bấm khoá AE

Màn trập


Loại màn trập

Màn trập qua tiêu điểm, điều khiển điện tử, cơ học di chuyển thẳng

Tốc độ màn trập

từ 1/8000 đến 1/60 giây, xung X ở 1/250 giây.
từ 1/8000 đến 30 giây, bulb (Phạm vi tốc độ màn trập: phạm vi có sẵn sẽ thay đổi theo chế độ chụp)

Nhả màn trập

Nhả điện từ bằng động tác chạm nhẹ

Tính năng hẹn giờ

Hẹn 10 hoặc 2 giây

Điều khiển từ xa

Điều khiển từ xa với đầu cắm loại N3

Đèn flash lắp bên trong máy


Loại

Đèn flash có thể co vào, tự động xoè ra

Quét sáng bằng đèn flash

Đèn flash tự động E-TTL II

Số hướng dẫn

13/43 (ISO 100, đơn vị mét/feet)

Thời gian hồi

xấp xỉ 3 giây

Hiển thị đèn flash sẵn sàng

Ánh sáng biểu thị đèn flash sẵn sàng trên kính ngắm

Phạm vi phủ đèn flash

Chiều dài tiêu cự ống kính 17mm

Khoá FE

có sẵn

Bù sáng đèn flash

Có thể lên tới ±2 điểm với dung sai 1/3 hoặc 1/2 điểm

Đèn Speedlite bên ngoài


Lấy zoom phù hợp với chiều dài tiêu cự ống kính

có sẵn

Đèn tương thích với đèn flash

Đèn Speedlites EX-series

Quét sáng đèn flash

Đèn flash tự động E-TTL II

Bù sáng đèn flash

±2 điểm với dung sai 1/3 hoặc 1/2 điểm

Khoá FE

có sẵn

Cài đặt đèn flash bên ngoài

Các cài đặt chức năng đèn flash, các cài đặt C.Fn đèn flash

Hệ thống chụp


Các chế độ chụp

Chụp một hình, chụp liên tiếp với tốc độ cao, chụp liên tiếp với tốc độ thấp, và chụp hẹn giờ (hẹn 10 hoặc 2 giây)

Tốc độ chụp liên tiếp

Chụp tốc độ cao:

tối đa 6,3 ảnh/giây

Chụp tốc độ thấp:

tối đa 3 ảnh/giây

Số lượng ảnh chụp tối đa

Ảnh JPEG (Ảnh cỡ lớn/ Ảnh đẹp):

xấp xỉ 60 ảnh (CF)/xấp xỉ 90 ảnh (UDMA CF)

Ảnh RAW:

xấp xỉ 17 ảnh

Ảnh RAW+JPEG (Ảnh cỡ rộng/ Ảnh đẹp):

Xấp xỉ 11 ảnh

* Dựa theo tiêu chuẩn thử nghiệm của Canon với thẻ CF dung lượng 2GB, chụp hình liên tiếp với tốc độ cao, ISO 100, và kiểu ảnh tiêu chuẩn sẽ khác nhau phụ thuộc vào vật chụp, nhãn hiệu thẻ CF, chất lượng ghi hình, tốc độ ISO, chế độ chụp, kiểu ảnh, vv

Chức năng xem trực tiếp


Các chế độ chụp

1. Chụp xem trực tiếp
2. Chụp hình xem trực tiếp từ xa (có một máy tính cá nhân được lắp đặt với tiện ích EOS)

Lấy tiêu cự

Lấy tiêu cự bằng tay Lấy tiêu cự tự động (Xem ảnh ngắt quãng cho AF): Chế độ nhanh, chế độ trực tiếp, chế độ dò tìm khuôn mặt trực tiếp

Các chế độ quét sáng

Quét toàn bộ với bộ cảm biến hình ảnh

Phạm vi quét sáng

EV 0 – 20 (ở 73°F/23°C với ống kính EF 50mm f/1.4 USM, ISO 100)

Tính năng xem phóng to

Phóng lên 5x hoặc 10x ở điểm AF

Hiển thị đường lưới

có sẵn

Tính năng mô phỏng độ sáng

có sẵn

Chụp yên tĩnh

có sẵn (Chế dộ 1 và 2)

Màn hình LCD


Loại màn hình

Màn hình màu tinh thể lỏng TFT

Kích thước màn hình

3,0 in.

Điểm ảnh

xấp xỉ 920,000 (VGA)

Độ che phủ

.xấp xỉ 100% (góc ngắm: xấp xỉ 160°)

Điều chỉnh độ sáng

có sẵn 7 mức

Ngôn ngữ giao diện

25

Tính năng xem lại ảnh


Định dạng hiển thị

Hiển thị ảnh đơn, ảnh đơn + Ảnh chụp chất lượng cao/thông tin chụp, biểu đồ, ảnh index 4 hoặc 9 ảnh, xem ảnh phóng to (xấp xỉ 1.5x-10x), ảnh xoay (tự động/bằng tay), xem nhảy ảnh (nhảy xem ảnh thứ 10 hoặc 100, xem từ màn hình ảnh index, xem theo ngày chụp, xem theo thư mục), xem trình duyệt (tất cả các ảnh/lựa chọn theo ngày/thư mục)

Tính năng hiển thị cảnh báo

có sẵn (nhấp nháy hiển thị quá độ sáng)

Tính năng xoá và bảo vệ ảnh


Bảo vệ

Các ảnh đơn có thể bảo vệ chống xoá hoặc không

Xoá

Xoá ảnh đơn, hoặc có thể xoá các ảnh đã kiểm tra và đánh dấu hoặc tất cả các ảnh trên thẻ CF (trừ các ảnh đã được bảo vệ)

Tính năng in trực tiếp


Các loại máy in tương thích

Các loại máy in tương thích với PictBridge

Hình ảnh có thể in được

Các ảnh JPEG phù hợp với quy tắc thiết kế dành cho hệ thống file máy ảnh (có thể in DPOF) và các loại ảnh RAW/sRAW được chụp với EOS 50D)

Tính năng in dễ dàng

có sẵn

DPOF: Định dạng thứ tự in kỹ thuật số


DPOF

Tương thích Version 1.1

Chuyển ảnh trực tiếp


Các loại ảnh tương thích

Các loại ảnh JPEG và RAW Chỉ các ảnh loại JPEG mới chuyển được thành phông màn hình trên máy tính

Tính năng tuỳ chọn


Các chức năng tự chọn

Tổng cộng 25

Cài đặt người sử dụng máy ảnh

Đăng ký dưới vị trí chế độ Quay C1 và C2

Tính năng đăng ký My Menu

có sẵn

Giao diện


Đầu cắm USB

Dành cho kết nối máy tính cá nhân và in trực tiếp (USB 2.0 tốc độ cao)

Đầu cắm ngõ ra Video

(1) Đầu cắm ngõ ra Video: có thể lựa chọn NTSC/PAL
(2) Đầu cắm ngõ ra mini HDMI

Đầu cắm hệ thống mở rộng

Để kết nối với WFT-E3A

Nguồn điện


Pin

Một bộ pin BP-511A Nguồn AC có thể được cấp qua thiết bị điều hợp AC tuỳ chọn ACK-E2 (với lưới pin tuỳ chọn BF-E2N hoặc BG-E2 đi kèm, có thể sử dụng pin kích cỡ AA)

Số lượng ảnh chụp


Số lượng ảnh chụp xấp xỉ

Nhiệt độ

Các điều kiện chụp

Khi không có đèn flash

Khi sử dụng 50% nguồn sáng đèn flash

Chụp thường

73°F/23°C

800

640

32°F/0°C

640

540

Chụp xem trực tiếp

73°F/23°C

180

170

32°F/0°C

140

130

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More